Bài 17: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946 - 1950) - Lịch sử lớp 12

Bạn phải là thành viên VIP mới được làm bài này! Đăng ký mua thẻ VIP tại đây

Bài tập 17: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946 - 1950)

I. Kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ

1. Thực dân Pháp bội ước và tiến công nước ta

   - Ngay sau ngày 6 - 3 -1946, Pháp mở các cuộc tiến công ta ở Nam Bộ và Trung Bội
   - Ở Bắc Bộ, hạ tuần tháng 11 - 1946, quân Pháp khiêu khích, tấn công ta ở Hải Phòng, Lạng Sơn
   - Ở Hà Nội, quân Pháp đốt Nhà thông tin ở phố Tràng tiền, chiếm đóng cơ quan Bộ Tài chính,... Ngày 18 - 12 - 1946, Pháp gửi tối hậu thư đòi Chính phủ ta giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu, để cho quân Pháp làm nhiệm vụ giữ gìn trật tự ở Hà Nội. Nếu yêu cầu đó không được chấp nhận, thì chậm nhất là sang 20 - 12 - 1946, chúng sẽ hành động

2. Đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng

   - Ngày 12 - 12 - 1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Toàn dân kháng chiến
   - Trong ngày 18 và 19-12-1946, Hội nghị bất thường Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương mở rộng,họp tại Vạn Phúc, đã quyết định phát động cả nước kháng chiến
   - Khoảng 20 giờ ngày 19 - 12 - 1946, công nhân Nhà máy điện Yên Phụ phá máy, cả thành phố mất điện là tín hiệu tấn công. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ CHí Minh được truyền đi cả nước
   - Chỉ thị Toàn dân kháng chiến, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Tổng Bí Thư Trường Chinh là văn kiện lịch sử quan trọng về đường lói kháng chiến, nêu rõ tính chất, mục đích, nội dung và phương châm của cuộc kháng chiến chống Pháp. Đó là cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, truwogf kì, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế.

II. Cuộc chiến đấu ở các đô thị và chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài

1. Cuộc chiến đấu ở các đo thị phía Bắc vĩ tuyến 16

   - Ở Hà Nội,khoảng 20 giờ ngày 19 - 12 - 1946, nhân dân đã làm những chướng ngại vật, chiến lũy ngay trên đường để chống giặc. Trung đoàn Thủ đô được thành lập, tiến đấnh những trận quyết liệt ở Bắc Bộ phủ, chợ Đồng Xuân... Ngày 17 - 12 - 1947, quân ta rút khỏi vòng vây của địch, ra căn cứ an toàn.
   - Ở các đô thị như Bắc Giang, Bắc Ninh, Huế, Đà Nẵng,... quân dân ta bao vây, tiến công, tiêu diệt nhiều tên địch.
   - Cuộc chiến đấu ở các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16 đã tạo điều kiện cho cả nước đi vào cuộc kháng chiến lâu dài.

2. Tích cực chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài

   - Sau khi rút khỏi Hà Nội, các cư quan Đảng, Chính phủ, Mặt trận,... chuyển lên căn cứ địa Việt Bắc
   - Về chính trị, các ủy ban hành chính chuyển thành Ủy ban kháng chiến hành chính, thực hiện nhiệm vụ kháng chiến và kiến quốc; mở rộng Mặt trận, thành lập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam
   - Về kinh tế, Chính phủ đề ra các chính sách nhằm duy trì và phát triển sản xuất, trước hết là sản xuất lương thực
   - Về quân sự, Chính phủ quy định mọi người dân từ 18 đến 45 tuổi được tuyển chọn tham gia các lực lượng chiến đấu
   - Về văn hóa,phong trào bình dân học vụ được duy trì và phát triển. Trường phổ thông các cấp vẫn tiếp tục giảng dạy, học tập trong chiến tranh

III. Chiến dịch Việt Bắc thu - đông năm 1947 và việc đẩy mạnh kháng chiến toàn dân, toàn diện

1. Chiến dịch Việt Bắc thu - đông năm 1947

   - Tháng 3 - 1947, Chính phủ Pháp cử Bôlae làm Cao ủy Pháp ở Đông Dương, thực hiện kế hoạch tiến công căn cứ địa Việt Bắc nhằm nhanh chóng kết thúc chiến tranh
   - Pháp huy động 12000 quân và hầu hết máy bay ở Đông Dương mở cuộc tiến công Việt Bắc từ ngày 7 - 10 - 1947. Khi đó, Đảng ta đã có Chỉ thị  "Phải phá tan cuộc tiến công mùa đông của giặc Pháp"
  - Quân dân ta chủ động bao vây, tiến công địch ở Chợ Mới, Chợ đồn, Chợ Rã,... buộc Pháp phải rút khỏi Chợ Đồn, Chợ Rã cuối tháng 11 - 1947
   - Ở mặt trận hướng đông, quân dân ta phục kích đánh địch nhiều trận trên đường số 4, tiêu biểu là trận phục kích ở đèo Bông Lau, đánh trúng đoàn xe cơ giới, thu nhiều vũ khí của địch
   - Ở mặt trận hướng tây, quân dân ta phục kích đánh địch nhiều trận trên sông Lô,nổi bật là trận Đoan Hùng, Khe Lau, đánh chìm nhiều tàu chiến, ca nô của địch
   - Cuộc chiến đấu giữa ta với địch đã kết thúc bằng cuộc rút chạy của đại bộ phận quân Pháp khỏi Việt Bắc ngày 19 - 12 - 1947.
   - Quân dân ta loại khỏi vong chiến đấu hơn 6 000 địch, bắn rơi 16 máy bay, bắn chìm 11 tàu chiến, ca nô, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh. Cơ quan đầu não kháng chiến được bảo toàn. Bộ đội chủ lực của ta ngày càng trưởng thành.
   - Sau thất bại Việt Bắc, Pháp thay đổi chiến lược từ "đánh nhanh,thắng nhanh" sang "đánh lâu dài", thực hiện chính sách "dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh".
   - Quân dân ta trên các chiến trường toàn quốc hoạt động mạnh, kiềm chế, không cho địch tập trung lớn binh lực vào chiến trường chính.

2. Đẩy mạnh kháng chiến toàn dân, toàn diện

   - Trên mặt trận chính trị :
    + Đầu năm 1949, Chính phủ quyết định tổ chức bầu cử Hội đồng nhân dân và Ủy ban kháng chiến hành chính các cấp
    + Tháng 6-1949, Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt quyết định tiến tới thông nhất thành Mặt trận Liên Việt
   - Trên mặt trận quân sự, trong những năm 1948-1949, bộ đội chủ lực phân tán, đi sâu vào cùng sau lưng địch, xây dựng cơ sở kháng chiến, phát triển chiến tranh du kích
   - Trên mặt trận kinh tế, Chính phủ ra các Sắc lệnh: giảm tô 25% (7-1949), hoãn nợ, xóa nợ (5-1950), chia lại ruộng đất công và tạm thời cấp ruộng đất vắng chủ...
   - Trên mặt trận văn hóa, giáo dục :
   + Tháng 7 - 1950, Chính phủ đề ra chủ trương cải cách giáo dục phổ thông,đặt nền mogs cho nền giáo dục dân tộc dân chủ Việt Nam
   + Hệ thống các trường đại học, trung học chuyên nghiệp bắt đầu được xây dựng

IV. Hoàn cảnh lịch sử mới và chiến dịch biên giới thu - đông năm 1950

1. Hoàn cảnh lịch sử mới của cuộc kháng chiến

   - Ngày 1 - 10 - 1949, cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời
   - Ngày 14 - 1 - 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với các nước
   - Ngày 18 - 1 - 1950, Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, ngày 30 - 1 - 1950 Chính phủ Liên Xô, trong vòng 1 tháng sau, các nước trong phe xã hội chủ nghĩa lần lượt đặt quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
   - Ngày 13 - 5 - 1949, với sự đồng ý của Mĩ, Chính phủ Pháp đề ra kế hoạch Rơve. Mĩ từng bước can thiệp sâu và "dính líu" trực tiếp vào cuộc chiến tranh ở Đông Dương
   - Từ tháng 6 - 1949, Pháp tăng cường hệ thống phòng ngự trên Đường số 4, thiết lập "Hành lang Đông - Tây"

2. Chiến dịch biên giới thu - đông năm 1950

  - Tháng 6 - 1950, Đảng và Chính phủ quyết định  mở chiến dịch biên giới nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch; khai thông đường sang Trung Quốc và thế giới; mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc, tạo đà thúc đẩy cuộc kháng chiến tiến lên
   - Diễn biến:
    + Sáng 16 - 9 - 1950, các đơn vị quân đội ta đánh vào dông Khê, đến sáng 18 - 9, bộ đội ta đã tiêu diệt hoàn toàn căn cứ điểm Đông Khê
    +Quân địch ở Thất Khê bị uy hiếp. Pháp huy động quân từ Thất Khê tiến lê chiếm lại Đông Khê, đón cánh quân từ Cao Bằng rút về
    + Quân ta chủ động mai phục, chặn đánh địch ở nhiều nơi trên đường số 4 khiến cho hai cánh quân không gặp được nhau
    + Thất Khê bị uy hiếp, quân Pháp phải rút về Na Sầm (8 - 10 - 1950) và ngày 13 - 10 - 1950, rút khỏi Na Sầm về Lạng Sơn. Cuộc hành quân của địch lên Thái Nguyên cũng bị quân ta chặn đánh
    + Quân Pháp hoảng loạn rút chạy, Đường số 4 được giải phóng ngày 22 - 10 - 1950
   - Kết quả:
    + Loại khỏi vòng chiến đấu hơn 8000 tên địch
    + Giải phóng một vùng biên giới Việt - Trung từ Cao Bằng tới Đình Lập với 35 vạn dân
    + Chọc thủng "Hành lang Đông - Tây" của Pháp
    + Thế bao vây của địch cả trong lẫn ngoài với căn cứ địa Việt Bắc bị phá vỡ
    + Kế hoạch Rove bị phá sản
   - Ý nghĩa :
    + Con đường liên lạc của ta với các nước xã hội chủ nghĩa được khai thông
    + Quân đội ta giành được thế chủ dộng trên chiến trường chính, mở ra bước phát triển mới của cuộc kháng chiến