Bài 19: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1953 - 1954) - Lịch sử lớp 12

Bạn phải là thành viên VIP mới được làm bài này! Đăng ký mua thẻ VIP tại đây

Lý thuyết bài 19: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc (1953 - 1954)

I. Âm mưu mới của Pháp - Mĩ ở Đông Dương: Kế hoạch Nava

   - Ngày 7 - 5 - 1953, đực sự thỏa thuận của Mĩ, Chính phủ Pháp cử tướng Nava làm Tổng Chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Nava đề ra kế hoạch quân sự với hi vọng trong vòng 18 tháng sẽ giành lấy một thắng lợi danh dự để "kết thúc chiến ttranh trong danh dự"
   - Kế hoạch Nava được chia thanh hai bước : 
    + Bước thứ nhất, trong thu đông 1953 - 1954 và xuân 1954, giữ thế phòng ngự chiến lược ở Bắc Bộ, tiến công chiến lược Trung Bộ và Nam Đông Dương, giành lấy nguồn nhân lực, vật lực; xóa bỏ vùng tự do Liên khu V; ra sức mở rộng ngụy quân, tập trung binh lực, xây dựng đội quân cơ động chiến lược mạnh
    + Bước thứ hai, từ thu - đông 1954, chuyển lực lượng ra chiến trường Bắc Bộ, thực hiện tiến công chiến lược, cố giành thắng lợi quân sự quyết định, buộc ta phải đàm phán với những điều kiện có lợi cho chúng nhằm kết thúc chiến tranh
   - Từ thu - đông 1953, Nava tập trung ở đồng bằng Bắc Bộ 44 tiểu đoàn quân cơ động, tiến hành những cuộc càn quét nhằm bình định vùng chiếm đóng, mở rộng hoạt động thổ phỉ, biệt kích ở vùng rừng núi phía Bắc,... để phá kế hoạch tiến công của ta.

II. Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954

1. Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954

   - Cuối tháng 9 - 1953, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp ở Việt Bắc để bàn về kế hoạch quân sự trong đông  xuân 1953 - 1954
   - Ngày 10 - 12 - 1953, một bộ phận chủ lực ucar ta tiến công thị xã Lai Châu, loại khổi vòng chiến đấu 24 đại đội địch, tỉnh Lai Châu (trừ Điện Biên Phủ) được giải phóng
   - Đầu tháng 12 - 1953, liên quân Việt - Lào mở cuộc tiến công địch ở Trung Lào, tiêu diệt trên 3 tiểu đoàn Âu - Phi, giải phóng 4km2 và thị xã Thà Khẹt, bao vây uy hiếp Xavannakhét, căn cứ Xênô
   - Cuối tháng 1 - 1954, liên quân Lào - Việt tiến công địch ở Thượng Lào, giải phóng lưu vực sông Nậm Hu, tỉnh Phongxalì 
   - Đầu tháng 2 - 1954, quân ta tiến công địch ở Bắc Tây Nguyên, loại khỏi vòng chiến đấu 2000 địch, giải phóng Kontum, bao vây uy hiếp Plâyku
   - Phối hợp với mặt trận chính, ở vùng sau lưng địch phong trào chiến tranh du kích phát triển mạnh

2. Chiến dịch Điện Biên Phủ (1954)

   - Nava tập trung để xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương. Tổng số binh lực địch lúc cao nhất có tới 16200 quân, được bố trí thành ba phân khu: phân khu Bắc gồm các cứ điểm Độc Lập, Bản Kéo; phân khu Trung tâm ở ngay giữa Mường Thanh, nơi đặt sở chỉ huy; phân khu Nam đặt tại Hồng Cúm.Tổng cộng ba phân khu có 49 căn cứ điểm
   - Điện Biên Phủ được coi là "một pháo đài bất khả xâm phạm"
   - Đầu tháng 12 - 1953, Bộ Chính trị Trung ưng Đảng họp, thông qua kế hoạch tác chiến của Bộ Tổng tư lệnh và quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Mục tiêu là tiêu diệt lực lượng địch ở đây, giải phóng vùng Tây Bắc, tạo điều kiện giải phóng Bắc Lào
   - Ngày 13 - 3 - 1954, quân ta nổ súng tấn công tập đoàn cứ diểm Điện Biên Phủ.
   - Chiến dịch chia làm ba đợt :
    + Đợt 1, từ ngày 13 đến ngày 17 - 3 - 1954 : quân ta tiến công tiêu diệt cụm cứ điểm Him Lam và toàn bộ phân khu Bắc. Kết quả, ta loại khỏi vòng chiến đấu gần 2000 tên địch
    + Đợt 2, từ 30 - 3 đến 26 - 4 - 1954 : quân ta tiến công các căn cứ điểm phía đông phân khu Trung tâm. Ta chiếm phần lớn các căn cứ điểm của địch, tạo thêm điều kiện để bao vây, chia cắt, khống chế địch
    + Đợt 3, từ 1 - 5 đến 7 - 5 - 1954 : quân ta tiến công phân khu Trung tâm và phân khu Nam, tiêu diệt các căn cứ điểm đề kháng còn lại của địch. Chiều 7 - 5, quân ta đánh vào sở chỉ huy địch. Đến 17 giờ 30 phút, Đờ Cax tơ ri cùng Ban Tham mưu của địch đầu hàng
   - Các chiến trường toàn quốc đã phối hợp chặt chẽ nhằm phân tán, tiêu hao, kìm chặn địch, tạo điều kiện cho Điện Biên Phủ thắng lợi
   - Cuộc Tiến công chiến lược đông - xuân 1953 - 1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, quân dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 128 200 tên địch, thu 19000 súng các loại, bắn cháy và phá hủy 162 máy bay, 81 đại bác, giải phóng nhiều vùng rộng lớn
   - Riêng tại mặt trận Điện Biên Phủ, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 16 200 tên địch
   - Thắng lợi của cuộc Tiến công chiến lược Đông - Xuân và chiến dịch Điện Biên Phủ đã đập tan hoàn toàn kế hoạch Nava, giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của Pháp, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh ở Đông Dương, tạo điều kiện thuạn lợi cho cuộc đấu tranh ngoại giao của ta giành thắng lợi.

III. Hiệp định Giơ ne vơ năm 1954 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương

1. Hội nghị Giơ ne vơ

   - Tháng 1 - 1954, Hội nghị Ngoại tưởng Liên Xô, Mĩ, Anh, Pháp họp ở Béc lin đã thỏa thuận về việc triệu tập một hội nghị quốc tế ở Giơnevơ để giải quyết vấn đề Triều Tiên và lập lại hòa bình ở Đông Dương.
   - Ngày 8 - 5 - 1954, Hội nghị Giơnevơ bắt đầu thảo luận về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương. Phái đoàn Chính phủ ta, do Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Văn Đồng làm Trưởng đoàn, chính thức được mòi họp.
   - Việt Nam đã kí Hiệp định Giơ ne vơ ngày 21 - 7 - 1954.

2. Hiệp định Giơ ne vơ

   - Hiệp định Giơnevơ năm 1954 ở Đông Dương bao gồm các văn bản : Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào,Campuchia ; Bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị và các bản phụ khác,...
   - Nội dùng Hiệp định Giơnevơ quy định :
    + Các nước tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của bá nước Việt Nam, Lào, Campuchia ;cam kết không can thiệp vào công việc nội bộ của ba nước
    + Các bên tham chiến thực hiện ngừng bắn, lập lại hòa bình trên toàn Đông Dương
    + Các bên thám chiến thực hiện cuộc tập kết, chuyển quân, chuyển giao khu vực
    + Hiệp định cấm đưa quân đội, nhân viên quân sự, vũ khí nước ngoài vào các nước Đông Dương. Các nước Đông Dương không được tham gia bất cứ khối liên minh quân sự nào và không để cho các nước khác dùng lãnh thổ của mình vào việc gây chiến tranh hoặc phục vụ cho mục đích xâm lược
    + Việt Nam tiến tới thống nhất bằng cuộc tổng tuyển cử tự do trong cả nước sẽ được tổ chức vào tháng 7 - 1956 dưới sự kiểm soát và giám sát của một Ủy ban quốc tế-
    + Trách nhiệm thi hành Hiệp định Giơnevơ thuộc về những người kí Hiệp định và những người kế tục họ
   - Ý nghĩa lịch sử :
    + Là văn bản pháp lí quốc tế ghi nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân các nước Đông Dương và được các cường quốc cùng các nước tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng
    + Đánh dấu thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta
    + Pháp buộc phải chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết quân đội về nước
    + Mĩ thất bại rong âm mưu kéo dài, mở rộng, quốc tế hóa chiến tranh xâm lược Đông Dương

   

IV. Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954)

1. Nguyên nhân thắng lợi

    - Nhờ có sự lãnh đọa sáng suốt của Đảng, đứng đầu alf Chủ tịch Hồ Chí Minh, với đường lối kháng chiến đúng đắn sáng tạo
   - Nhờ có hệ thống chính quyền dân chủ nhân dân trong cả nước
   - Mặt trận dân tọc thống nhất được củng cố và mở rộng
   - Lực lượng vũ trang ba thứ quân sớm được xây dựng và không ngừng lớn mạnh
   - Hậu phương rộng lớn, vững chắc về mọi mặt
   - Tiến hành trong liên minh chiến đấu của ba nước chống kẻ thù chung
   - Có sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của Trung Quốc, Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân, của nhân dân Pháp và loài người tiến bộ

2. Ý nghĩa lịch sử

   - Chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược đồng thời chấm dứt ách thống trị thực dân của Pháp gần một thế kỉ trên đất nước ta
   - Miền Bắc nước ta được giải phóng, chuyển sang giai đoạn cách mạng xã họi chủ nghĩa, tạo cơ sở để nhân dân ta giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc
   - Giáng đòn nặng nề vào tham vọng xâm lược, âm mưu nô dịch của chủ nghĩa đế quốc sau Chiến tranh thế giới thứ hai
   - Góp phần làm tan rã hệ thống thuộc địa của chúng
   - Cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc các nước châu Á, châu Phi, Mĩ Latinh.