Bài 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945 - 1991) Liên Bang Nga (1991 - 2000) - Lịch sử lớp 12

Bạn phải là thành viên VIP mới được làm bài này! Đăng ký mua thẻ VIP tại đây

Lý thuyết bài 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945 - 1991) Liên Bang Nga (1991 - 2000)

I. Liên Xô và các nước Đông Âu từ 1945 đến giữa những năm 70

1. Liên Xô

a) Công cuộc khôi phục kinh tế (1945 - 1950)

   - Liên Xô là nước chịu tổn thất nặng nề nhất trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Với tinh thần tự lực tự cường, nhân dân Liên Xô đã hoàn thành thắng lợi kế hoạch 5 năm khôi phục kinh tế (1946 - 1950) trong vòng 4 năm 3 tháng
   - Khoa học - kĩ thuật phát triển nhanh chóng. Năm 1949, Liên Xô đã chế tạo thành công bom nguyên tử, phá thế độc quyền vu khí nguyên tử của Mĩ

b) Liên Xô tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội (từ năm 1950 đến nửa đầu những năm 70)

   - Liên Xỗ trở thành cường quốc công nghiệp thứ hai trên thế giới sau Mĩ. Liên Xô đi đầu trong công nghiệp vũ trụ, công nghiệp điện hạt nhân.
   - Sản lượng nông phẩm trong những năm 60 tăng trung bình hằng năm 16%.
   - Năm 1957 LIên Xô là nước đầu tiên phóng thành công vệ tinh nhân tạo. Năm 1961, Liên Xô đã phóng con tàu vũ trụ đưa nhà du hành vũ trụ I.Gagarin bay vòng quanh Trái Đất, mở đầu kỉ nguyên chinh phục vũ trụ của loài người.
   - Tỉ lệ công nhân chiếm hơn 55% số người lao động trong cả nước. Trình độ học vấn của người dân không ngừng được nâng cao.
   - Liên Xô thực hiện chính sách bảo vệ hòa bình thế giới, ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc và giúp đỡ các nước xã hội chủ nghĩa.

2. Các nước Đông Âu

a) Sự ra đời các nhà nước dân chủ nhân dân Đông Âu

   - Trong năm 1944 - 1945, cùng với cuộc tấn công truy kích quân đội phát xít của Hồng quân Liên Xô, nhân dân các nước Đông Âu đã nổi dậy giành chính quyền, thành lập nhà nước dân chủ nhân dân.
   - Ở đông Đức, với sự giúp đỡ của Liên Xô, tháng 10 - 1949 nước Cộng hòa Dân chủ Đức được thành lập.
   - Trong năm 1945 - 1949, các nhà nước dân chủ nhân dân ở các nước Đông Âu tiến hành cải cách ruộng đất, xóa bỏ chế độ chiếm hữu ruộng đất của địa chủ, quốc hữu hóa các xí nghiệp lớn của tư bản trong và ngoài nước, ban hành các quyền tự do dân chủ, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân. Chính quyền nhân dân được củng cố, vai trò lãnh đạo của các đảng cộng sản ngày càng được khẳng định.

b) Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hôi ở các nước Đông Âu

   - Trong năm 1950 -m1975, các nước Đông Âu đã thực hiện nhiều kế hoạch 5 năm nhằm xây dựng cơ sở vật chất -kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội tong tình trạng khó khăn phức tạp. Các nước này xuất phát từ trình độ phát triển thấp, bị các nước đế quốc bao vây về kinh tế và thế lực phản động trong nước chống phá. Với sự giúp đỡ có hiệu quả của Liên Xô và sự nỗ lực vươn lên của nhân dân, các nước Đông Âu giành được nhiều thành tựu to lớn.
   - Các nước Đông Âu tiến hành xây dựng nền công nghiệp, điện khí hóa toàn quốc. Nông nghiệp phát triển nhanh chóng, đáp ứng nhu cầu lương thực thực phẩm của nhân dân. Trình độ khoa học - kĩ thuật được ngâng lên rõ rệt. Từ những nước nghèo, các nước này đã trở thành các quốc gia công - nông nghiệp.

3. Quan hệ hợp tác giữa các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Âu

a) Quan hệ kinh tế, khoa học - kĩ thuật

   - Ngàu 8 - 1 - 1949, Hội đồng tuơng trọ kinh tế (SEV) được thành lập với sự tham gia của các nước xá hội chủ nghĩa ở châu Âu: Liên Xô,Anbani, Ba Lan, Bungari, Hunggari, Tiệp Khắc, Rumani. Mục tiêu của SEV là tăng cường sự hợp tác giữa các nước xxa hội chủ nghĩa, thúc đẩy sự tiến bộ về kinh tế và kĩ thuật, thu hẹp dần sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế giữa các nước thành viên. Sau hơn 20 năm hoạt động, SEV đã đạt được một số thành tựu tuy nhiên cũng bộ lộ một số thiếu sót: không hòa nhập với kinh tế thế giới, chưa coi trọng đầy đủ việc áp dụng những tiến bộ của khoa học và công nghệ,...

b) Quan hệ chính trị - quân sự 

   - Ngày 14 - 5 - 1955, đại biểu các nước Anbani, Ba Lan, Bungari, Đức, Hunggari, Liên Xô, Rumani, Tiệp Khắc họp tại Vácsava kí kết Hiệp ước hữu nghị, hợp tác và tương trợ, đánh dấu sự ra đời của Tổ chức Hiệp ước Vác sava. Mục tiêu là thành lập liên minh phòng thủ về quân sự và chính trị của các nước xã hội chủ nghĩa châu Âu.
   - Tổ chức Hiệp ước Vácsava có vai trò to lớn trog việc giữ gìn hòa bình, an ninh ở châu Âu và thế giới.

II. Liên Xô và các nước Đông Âu từ giữa những năm 70

1. Sự khủng hoảng của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô

   - Năm 1973, cuộc khủng hoảng dầu mỏ bùng nổ đã tác động mạnh mẽ đến tình hình chính trị, kinh tế,tài chính của nhiều nước trên thế giới. Liên Xô chậm đề ra những biện pháp sửa đổi để thích ứng với tình hình mới. Đến cuối những năm 70 - đầu những năm 80, nền kinh tế Liên Xô dần bộc lộ dấu hiệu suy thoái
   - Đời sống chính trị có những diễn biến phức tạp, xuất hiện tư tưởng và một số nhóm đối lập chống lại Đảng Cộng sản và Nhà nước Xô viết
   - Tháng 3 - 1985, M. Goócbachốp lên nắm quyền lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô, thực hiện "cải cách kinh tế triệt để", cải cách hệ thống chính trị và đổi mới tư tưởng
   - Sau 6 năm tiến hành, do phạm nhiều sai lầm nên tình hình không được cải thiện, đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng toàn diện.
   - Tháng 8 -1991, cuộc chính biển nhằm lật đổ Goócbachốp nổ ra nhưng thất bại. Goócba chốp tuyên bố từ chức Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô.Đảng Cộng sản Liên Xô bị đình chỉ, Chính phủ Liên bang bị tê liệt. Ngày 21 - 12- 1991, Cộng đồng các quốc gia độc lập được thành lập. Nhà nước Liên bang Xô viết tan rã. Ngày 25 - 12 - 1991, Goócbachốp từ chức Tổng thống, đanh dấu sự chấm dứt chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sau 74 năm tồn tại.

2. Sự khủng hoảng của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu

   - Vào những năm cuối thập kỉ 70 - đầu thập kỉ 80, nền kinh tế Đông Âu lâm vào tình trạng trì trệ. Lòng tin của nhân dân vào Đảng Cộng sản và Nhà nước giảm sút. Ban lãnh đạo Đảng và Nhà nước ơ các nước Đông Âu cố gắng để điều chỉnh sự phát triển kinh tế. Nhưng sai lầm của biện pháp cải cách với sự bế tắc trong cải tổ ở Liên Xô và hoạt động phá hoại của thế lực phản động làm cho cuộc khủng hoảng ở Đông Âu ngày càng gay gắt. ban lãnh đạo các nước Đông Âu từ bỏ quyền lãnh đạo của Đảng, chấp nhận chế độ đa nguyên, đa đảng, tiến hành tổng tuyển cử, chấm dứt chế độ xã hội chủ nghĩa.
   - Cuộc khủng hoảng bùng nổ từ cuối 1989, nhiều người chạy từ Đông Đức sang Tây Đức. Ngày 3 - 10 - 1990, sáp nhập Cộng hòa Dân chủ Đức vào Cộng hòa Liên bang Đức.

3. Nguyên nhân tan rã của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu

   - Do đường lối lãnh đạo mang tính chủ quan, duy ý chí, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp làm cho sản xuất trì trệ, đời sống nhân dân không được cải thiện. Sự thiếu dân chủ, công bằng làm tăng thêm sự bất mãn trong quần chúng.
   - Không bắt kịp bước phát triển vủa khoa học - kĩ thuật tiên tiến, dẫn tới trì trệ, khủng hoảng về kinh tế xã hội.
   - Tiến hành cải tổ phạm sai lầm trên nhiều mặt, làm cho khủng hoảng thêm trầm trọng.
   - Sự chống phá của các thế lực thù địch trong và ngoài nước.

III. Liên Bang Nga từ năm 1991 đến năm 2000

   - Sau khi Liên Xô tan rã, Liên bang Nga là "quốc gia kế tục Liên Xô".
   - Về kinh tế, trong năm 1990 - 1995, tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm của GDP luôn là số âm. Từ năm 1996, kinh tế Liên bang Nga có dấu hiệu phục hồi.
   - Tháng 12 - 1993,Hiến pháp Liên bang Nga được ban hành, quy định thể chế Tổng thống Liên bang. Về đối nội, Nga phải đối mặt với thách thức lớn là tình trạng không ổn định do sự tranh chấp giữa các đảng phái và những vụ xung đột sắc tộc.
   - Về đối ngoại, một mặt Nga ngả về phương Tây hi vọng nhận được sự ủng hộ về chính trị và viện trợ về kinh tế; mặt khác, Nga khôi phục và phát triển quan hệ với các nước châu Á.
   - Từ năm 2000.V. Putin leenlafm Tổng thống, Nga có nhiều chuyển biến khả quan: kinh tế dân hồi phục và phát triển, chính trị và xã hội tương đối ổn định, vị thế quốc tế được nâng cao. Tuy vậy, Nga vẫn phải đương đầu với nạn khủng bố do phần tử ki khai gây ra, tiếp tục khắc phục trở ngại trên con đường phát triển để giữ vũng địa vị của một cường quốc Âu - Á.