Bài 21: Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược. Nhân dân miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất (1965 - 1973) - Lịch sử lớp 12

Bạn phải là thành viên VIP mới được làm bài này! Đăng ký mua thẻ VIP tại đây

Lý thuyết bài 21: Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược. Nhân dân miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất (1965 - 1973)

I. Chiến đấu chống chiến lược "Chiến tranh cục bộ' của đế quốc Mĩ ở miền Nam (1965 - 1968)

1. Chiến lược "Chiến tranh cục bộ' của Mĩ ở miền Nam

   - Sau thất bại của chiến lược "Chiến tranh đặc biệt",Mĩ đẩy mạnh chiến tranh xâm lược, chuyển sang chiến lược "Chiến tranh cục bộ" ở miền Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc
   - Quân Mĩ vừa và miền Nam đã mở ngay cuộc hành trình "tìm diệt" vào căn cứ của Quân giải phóng ở Vạn Tường. Tiếp đó, Mĩ mở liền hai cuộc phản công chiến lược mùa khô bằng hàng loạt cuộc hành quân "tìm diệt" và "bình định" vào vùng "đất thánh Việt cộng".

2. Chiến đấu chống chiến lược "Chiến tranh cục bộ' của Mĩ

   - Nhân dân ta chiến đấu chống chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của Mĩ với ý chí quyết chiến quyết thắng , mở đầu là các thắng lợi ở Núi Thành, Vạn Tường
   - Vạn Tường được coi là "Ấp Bắc" với quân Mĩ, mở đầu cao trào "tìm Mĩ mà đánh, lùng ngụy mà diệt" trên khắp miền Nam
   - Bước vào mùa khô thứ nhất ( đông - xuân 1965 - 1966) với 72 vạn quân, địch mở cuộc phản công với 450 cuộc hành quân, trong đó có 5 cuộc hành quân "tìm diệt " lớn nhằm vào Đông Nam Bộ và Luên khu V với mục tiêu đánh bại chủ lực Quân giải phóng
   - Quân dân ta chặn đánh địch trên mọi hướng, tiên công địch mọi nơi
   - Bước vào mùa khô thứ hai (đông - xuân 1966- 1967), Mĩ mở cuộc phản công với 895 cuộc hành quân, lớn nhất là cuộc hành quân Gianxơn Xiti đánh vào căn cứ Dương Minh Châu, nhằm tiêu diệt quân chủ lực và cơ quan đầu não của ta
   - Quần chúng ở nông thôn đứng lên dấu tranh chống ách kìm kẹp của địch, phá "ấp chiến lược". Công nhân, các tầng lớp lao động khác,... trong các thành thị đấu tranh đòi Mĩ rút về nước, đồi tự do dân chủ.
   - Đến cuối năm 1967, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam có cơ quan thường trực ở hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa.

3. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968

   - Mùa xuân năm 1968, ta chủ trương mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam, nhằm tiêu diệt một bộ phận lực lượng quân Mĩ, quân đồng minh, đánh đòn mạnh vào chính quyền và qaun đọi Sài Gòn, giành chính quyền về tay nhân dân, buộc Mĩ phải đàm phán, rút quân về nước
   - Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy được mở đầu bằng cuộc tập kích chiến lược của quân chủ lực vào hầu khắp các đô thị miền Nam trong đêm 30 rạng sáng 31 - 1 - 1968. Cuộc Tổng tiến công và nổi đậyiễn ra qua ba đợt : từ đêm 20 - 1 đến ngày 25 - 2 ; tháng 5 và 6 ; tháng 8 và 9 năm 1968
   - Tại Sài Gòn, Quân Giải phóng tiến công các vị trí đầu não của địch. Trong đợt 1, quân dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 147 000 tên địch, phá hủy một khối lượng lớn vật chất, phương tiện chiến tranh của chúng
   - Tổ chức Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình ở Sài Gòn, Huế, toàn miền Nam, địa diện cho tầng lớp trí thức, tư sản dân tộc, tiến bộ ở thành thị, được thành lập
   - Cuộc tiến công này đx đánh đòn bất ngờ, làm cho địch choáng váng. Nhưng chúng đã nhanh chóng tổ chức lại lực lượng, phản công quân ta. Vì vậy, trong đợt 2 và 3, lực lượng của ta gặp không ít khó khăn và tổn thất
  - Ý nghĩa :
    + Làm lung lay ý chí xâm lược của quân Mĩ
   + Buộc Mĩ phải tuyên bố "phi Mĩ hóa" chiến tranh xâm lược
   + Chấm dứt không điều kiện chiến tranh phá hoại miền Bắc
    + Chấp nhận đến đàm phán ở Pari bàn về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam
    + Mở ra bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước

II. Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mĩ, vừa sản xuất và làm nghĩa vụ hậu phương (1965 - 1968)

1. Mĩ tiến hành chiến tranh bằng không quân và  hải quân phá hoại miền Bắc

   - Ngày 15 - 8 - 1964, sau khi dựng lên "sự kiện Vịnh Bắc Bộ", Mĩ cho máy bay ném bom bắn phá một số nơi ở miền Bắc như cửa sông Gianh, Hòn Gai
   - Ngày 7 - 2 - 1965, Mĩ cho máy bay ném bom bắn phá thị xã Đồng Hới, đảo Cồn Cỏ.. chính thức gây ra cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân phá hoại miền Bắc (lần thứ nhất)
   - Mĩ âm mưu phá tiềm lực kinh tế,quốc phòng, phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc  ngăn chặn nguồn chi viện từ bên ngoài vào miền Bắc và từ miền Bắc vào miền Nam ; uy hiếp tính thần, làm lung lay ý chí chống Mĩ của nhân dân ta ở hai miền đất nước

2. Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mĩ, vừa sản xuất và làm nghĩa vụ hậu phương

   - Từ ngày đầu Mĩ mở rộng chiến tranh, miền Bắc thực hiện quân sự hóa toàn dân, đào đắp công sự chiến đấu, hầm hào phòng tránh, triệt để sơ tán, phân tán những nơi đông dân để tránh thiệt hại về người và của
   - Trong chiến đấu và sản xuất, trên miền Bắc dấy lên phong trào thi đua chống Mĩ, cứu nước
   - Trên mặt trận sản xuất lập được những thành tích quan trọng :
   + Nông nghiệp : diện tích canh tác được mở rộng, năng suất lao động không ngừng tăng lên, ngày càng có nhiều hợp tác xã
    + Công nghiệp: năng lực sản xuất ở một số ngành được giữ vững. Công nghiệp địa phương và công nghiệp quốc phòng đều phát triển
    + Giao thông vận tải : Một trong những trọng điểm bắn phá của địch được quân dân ta bảo đảm thường xuyên thông suốt

III. Chiến đấu chống chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" và "Đông Dương hóa chiến tranh" của Mĩ (1969 - 1973)

1. Chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" và "Đông Dương hóa chiến tranh" của Mĩ

   - Sau thất bại của chiến lược chiến tranh cục bộ, Mĩ chuyển sang chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", "Đông Dương hóa chiến tranh"
   - "Việt Nam hóa chiến tranh" được tiến hành bằng lực lượng quân đội Sài Gòn là chủ yếu do Mĩ chỉ huy bằng hệ thống cố vấn.
   - Mĩ dùng các thủ đoạn ngoại giao nhằm hạn chế sự giúp đỡ của các nước Trung Quốc, Liên Xô đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta.

2. Chiến đấu chống chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" và "Đông Dương hóa chiến tranh" của Mĩ

   - Ngày 6 - 6 -1969, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt nam được thành lập
   - Ngày 2 - 9 - 1969, Chủ tịch Hồ CHí Minh qua đời. Đây là một tổn thất to lớn đối với dân tộc ta, cách mạng nước ta
   - Trong ngày 24 và 25 - 4 - 1970, Hội nghị cấp cao Việt Nam - Lào - Campuchia họp, nhằm đối phó với việc Mĩ chỉ đạo say sai làm đảo chính lật đổ Chính phủ trung lập của Xiha núc ở Campuchia
   - Từ 30/4 đến 30/6/1970, quân đội Việt Nam phói hợp với quân đội Campuchia đập tan cuộc hành quân xâm lược Campuchia của 10 vạn quân Mĩ, quân đội Sài Gòn
   - Từ 12/2 đến 23/3/1971, quân đội Việt Nam phối hợp với quân dân LÀo đã đập tan cuộc hành quân mang tên "Lam Sơn - 719" của 4,5 vạn quân Mĩ, quân đội Sài Gòn
   - Ở các thành thị, phong trào của các tầng lớp nhân dân nổ ra liên tục.
   - Ở các vùng nông thôn, đồng bằng, rùng núi,ven đô thị đều có phong trào quần chúng nổi dậy chống "bình định", phá "ấp chiến lược" của địch.

3. Cuộc Tiến công chiến lược năm 1972

   - Ngày 30 - 3 - 1972, quân ta mở cuộc tiến công chiến lược đánh vào Quảng Trị, lấy Quảng Trị là hướng tiến công chủ yếu, rồi phát triển rộng khắp chiến trường miền Nam
   - Cuối tháng 6 - 1972, quân ta đã chọc thủng ba phòng tuyến mạnh nhất của địch là Quảng Trị, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 20 vạn quân Sài Gòn, giải phóng nhiều vùng
   - Quân đội Sài Gòn có sự yểm trợ của Mĩ đã phản công, gây cho ta nhiều thiệt hại. Mĩ tiến hành trở lại cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc
   - Cuộc Tiến công này đã giáng đòn nặng nề vào chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", buộc Mĩ phải tuyên bố "Mĩ hóa" trở lại chiến tranh xâm lược

   IV. Miền Bắc khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội, chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai của Mĩ và làm nghĩa vụ hậu phương

1. Miền Bắc khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội

   - Nông nghiệp : 
    + Chính phủ đề ra một sô chủ trương khuyến khích sản xuất
    + Chăn nuôi được đưa lên ngành chính
    + Các hợp tác xã tích cực áp dụng tiến bộ khoa học - kĩ thuật với biện pháp thâm canh tăng vụ
   - Công nghiệp ;
    + Nhiều cơ sở công nghiệp trung ương và địa phương bị tàn phá được khôi phục anhanh chóng
    + Nhiều công trình đang làm dở được ưu tiên đầu tư xây dựng tiếp và đưa vào hoạt động
    + Một số ngành công nghiệp quan trọng như điện, than, cơ khí,... đều có bước phát triển
   - Hệ thống giao thông vận tải, nhất là các tuyến giao thông chiến lược bị phá hoại nặng nề, được khẩn trương phục hồi
   - Văn hóa, giáo dục, y tế nhanh chóng được phục hồi và phát triển. Đòi sống nhân dân ổn định

2. Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa sản xuất và làm nghĩa vụ hậu phương

   - Ngày 6 - 4 - 1972, Mĩ cho máy bay ném bom bắn phá một số nơi thuộc khu IV cũ. Ngày 16 - 4 - 1972, Ních xơn chính thức tiến hành cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân phá hoại miền Bắc (lần thứ hai); đến ngày 5 - 9, chúng tuyên bố phong tỏa cảng Hải Phòng cùng các cửa sông, vùng biển miền Bắc
   - Ngày 14 - 12 - 1972, Níchxơn phê chuẩn kế hoạch mở cuộc tập kích chiến lwuojc đường không bằng máy bay B52 vào Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố trong 12 ngày đêm từ tối 18 đến hết ngày 20 - 12 sau gần hai tháng tuyên bố ngừng ném bom bắn phá miền Bắc
   - Quân dân miền Bắc đánh trả không quân Mĩ, bắn rơi 81 máy bay, bắt sống 43 phi công, đạp tan cuộc tập kích chiến lược. Thắng lợi này được coi như trận "Điện Biên Phủ trên không".
   - Trong cả cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai, miền Bắc bắn rơi 735 máy bay, bắn chìm 125 tàu chiến, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm phi công Mĩ.
   - Đây là trận thắng quyết định của ta, buộc Mĩ phải tuyên bố ngừng hẳn các hoạt động chống phá miền Bắc, kí hiệp định Pari.

V. Hiệp định Pari năm 1973 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam

   - Ngày 31 - 3 - 1968, Giônxơn tuyên bố ngừng ném bom phá hoại miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, bắt đầu nói đến đàm phán với Việt Nam
   - Ngày 13 - 5 - 1968, cuộc đàm phán chính thức diễn ra tại Pari giữa đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đại diện Chính phủ Hoa Kì. Từ ngày 25 - 1- 1969, giữa bốn bên là Việt nam Dân chủ Cộng hòa, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, Hoa Kì và Việt Nam Cộng hòa
   - Lập trường hai bên Việt Nam và Hoa Kì rất khác nhau,mâu thuẫn nhau, khiến cuộc đấu tranh diễn ra gay gắt ngay trên bàn đàm phán, nhiều lúc cuộc thương lượng phải gián đoạn
   - Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được kí chính thức ngày 27 - 1 - 1973 tại Pari giữa bốn ngoại trưởng, đại diện cho các chính phủ tham sự Hội nghị và bắt đầu có hiệu lực
   - Hiệp định Pari là sự thắng lợi của sự kết hợp giữa đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao, là kết quả cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất của quân dân ta ở hai miền đất nước, mở ra bước ngoặt mới của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước
   - Với Hiệp định Pari, Mĩ phải công nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân ta, rút hết quâ về nước. Đó là thắng lợi lịch sử quan trọng, tạo ra thời cơ thuận lợi để nhân dân ta tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam.